Ông đồ và hồn xưa dân tộc

Tên thật được lấy làm bút danh, sinh ngày 12-11-1913, quê gốc Hải Dương, mất ngày 18-1-1996 tại Hà Nội, Vũ Đình Liên là một trong những người mở đầu và góp phần thắng lợi cho phong trào Thơ mới bằng bài thơ (chỉ một thôi) xuất sắc “Ông đồ”, in lần đầu trên báo Tinh Hoa năm 1936.

Tên thật được lấy làm bút danh, sinh ngày 12-11-1913, quê gốc Hải Dương, mất ngày 18-1-1996 tại Hà Nội, Vũ Đình Liên là một trong những người mở đầu và góp phần thắng lợi cho phong trào Thơ mới bằng bài thơ (chỉ một thôi) xuất sắc “Ông đồ”, in lần đầu trên báo Tinh Hoa năm 1936.

Nhà thơ của người lao khổ

Trước và sau Ông đồ, ông có viết một số bài thơ khác, nhưng chất lượng không bằng Ông đồ. Đầu năm 1941, trong một bức thư gửi Hoài Thanh, lúc Hoài Thanh làm cuốn Thi nhân Việt Nam, Vũ Đình Liên viết: “Tôi bao giờ cũng có cảm tưởng không đạt được ý thơ của mình. Cũng vì  không tin thơ tôi có chút giá trị gì nên đã lâu tôi không làm thơ nữa”. Hoài Thanh nhận xét Vũ Đình Liên đã quá khiêm nhường, nhưng ông cũng hiểu nỗi đau lòng của Vũ Đình Liên. Quả vậy, suốt năm sáu chục năm ấy, nói tới Vũ Đình Liên người ta nhớ ngay đến Ông đồ và chỉ Ông đồ đã đủ tôn vinh một nhà thơ.

Từ kháng chiến chống Pháp cho đến khi tạ thế, Vũ Đình Liên dồn sức lực vào công việc sư phạm: viết giáo trình, dạy tiếng Pháp và dịch thơ, mà hầu như chỉ dịch thơ Beaudelaire, nhà thơ Pháp. Thỉnh thoảng có làm thơ như để ghi chép chuyện đời, như thù tạc với bạn bè, không mang đăng báo. Vũ Đình Liên lúc sinh thời vẫn tới gặp gỡ bạn bè ở Hội Nhà văn Việt Nam, nhưng ông đã là người thơ của quá khứ. Hình như ông không đọc và không trao đổi gì về thơ đương đại.  

Vũ Đình Liên, ngay từ buổi đầu làm thơ, đã tự nhận là nhà thơ của những người lao khổ. Trên báo Phong Hóa, số ngày 18-8-1934, ông ao ước: “Tôi muốn hát những bài ca thảm thiết/ Như những tiếng kêu than của người đói rét/ (...)Tôi muốn ru những trẻ con côi cút/ Không chốn nương thân, không người chăm chút/ (...) Tôi muốn an ủi những người nghèo khổ/ Thiểu não bơ vơ, không họ hàng nhà cửa/  (...) Tôi sẽ gọi bạn lầm than đói khát/ Đến xung quanh để nghe tôi đàn hát/  (...) Rồi hết thảy bầy rách rưới đui mù,/ Từ ông lão già cho đến đứa trẻ thơ/ Dứt tiếng hát đều kêu lên cảm khái: -Anh là thi sỹ của những người thân tàn ma dại”.

Bốn mươi ba năm sau, năm 1977, khi ngoài đời đã bao nhiêu đổi thay, cách mạng thành công, nhà nước nhân dân thành lập, người lao động thành người làm chủ, Vũ Đình Liên vẫn nguyên vẹn lòng thương xót, nỗi chia sẻ tê tái với những người thất thiệt. Bài thơ Người đàn bà điên ga Lưu Xá là một thí dụ. Người đàn bà điên ấy xơ xác, rách rưới, bẩn thỉu, mọi người trên toa tầu xa lánh, chỉ có ông nhà thơ có cái nhìn xót thương: “Tôi với người điên ngồi không nói/ Dưới sàn trên ghế vẫn nhìn nhau". Nhà thơ nhận ra giữa mình và người điên kia như được trời xếp đặt để cùng thương cảm: “Ai xui khiến và ai xếp đặt/ Một nhà thơ với một người điên”.

Quả là lời thơ Vũ Đình Liên lúc này không diễn được hết ý ở lòng ông nhưng vẫn đủ để ta nhận ra chất tâm hồn ấy.

Tấm lòng sẻ chia cao cả

Thương người nghèo khổ không chỉ là việc trong thơ mà là cách sống của đời ông. Ông sống như thơ ông. Nhiều năm, cứ sáng mồng một tết, ông gói đôi bánh chưng ra bến tàu xe ăn tết với những người thân tàn ma dại, tứ cố vô thân. Người nhà cho ông là trái nết, nhưng các bạn văn chương khâm phục ông. Ông ăn uống kham khổ, mặc áo vải thô, đi bộ, dành tiền tặng người nghèo khó.

Tiền thưởng danh hiệu Giáo viên Nhân dân, ông san sẻ cho sinh viên nghèo. Một chiếc áo dạ con trai vừa biếu, ông tặng ngay cho người bạn có con trai là liệt sĩ. Ông như người không có nhu cầu vật chất. Tiêu pha cho bản thân chả tốn kém bao nhiêu. Đến ốm đau ông cũng tự chữa, không phiền đến bệnh viện.

Có thời gian ông tá túc ở chùa Bộc, ngôi chùa gần gò Đống Đa, hồi ấy còn gần với quần thể lăng tẩm ấp Thái Hà. Ông dễ động lòng trắc ẩn với cảnh cũ người xưa. Ông là người bạn thầm lặng và có tình nhất với gia đình Vũ Trọng Phụng. Miệng thế đổi thay, ông vẫn nguyên tấm lòng thương, tin, nể, phục tài năng và đức độ ông Phụng.

Ông coi đứa con gái mồ côi của ông Phụng như con, còn thương hơn cả hai người con trai của ông, bởi khi ông Phụng mất (năm 1939), chị Vũ Mỹ Hằng mới đầy tuổi tôi. Tôi không có ý định viết người tốt việc tốt về Vũ Đình Liên, nhưng muốn cùng bạn đọc khám phá cái cội nguồn làm ra những câu thơ thương cảm và bao giờ cũng thoáng chút ân hận mà bài thơ Ông đồ là một thí dụ. Vũ Đình Liên sống như muốn đền bù cho xung quanh. Ông giản lược đến tột cùng nhu cầu vật chất cũng để sẻ chia cho người khác.

Với Vũ Đình Liên, thơ không chỉ là chữ trên giấy mà còn là chính cuộc đời ông. Nó tràn vào cách sống, cách xử thế của ông. Ngay sau ngày thống nhất đất nước, ông lặn lội vào tận Bến Tre, viếng mộ cụ Đồ Chiểu, mang một nắm đất ra Hà Nội chia tặng bạn văn thơ. Không biết đến nay ai còn giữ được? Ai kính phục? Ai mỉm cười?

Ảnh minh họa: NGỌC TUẤN

Ảnh minh họa: NGỌC TUẤN

Những năm ấy, thế giới phương Tây còn cách bức với ta, người mê thơ Pháp ấy đã cố tìm một bạn văn đi Pháp để gửi chai nước lấy từ sông Hồng Hà Nội, nhờ sang đổ vào sông Sein ở Paris. Không biết đã có ai giúp ông việc ấy? Ông sống thơ hơn các nhà thơ là ở chỗ này và ông khó hài lòng được với chính thơ ông cũng từ chỗ ấy.

Nhiều câu thơ trong bài Ông đồ như vận vào đời ông. Ông cũng ngơ ngác như lạc trong cuộc đời hiện đại. Ông yêu thơ đến mức không dám làm thơ. Ông nổi tiếng mà không có tập thơ riêng. Bài thơ Ông đồ là một thành tựu vừa như đột xuất vừa là tất yếu của chất tâm hồn ông. Ông đồ, người theo đòi nghiên bút không thành danh, phải xoay ra bán chữ nuôi thân. Kẻ sỹ mà phải bán chữ đã là cực lắm. Ấy thế mà bài thơ lại dắt ta vào thời đạo Nho mạt vận, đến chữ đem bán mà không còn ai mua. Chưa thấy cảnh bán hàng nào thê thảm bằng cảnh ông đồ bán chữ cũng ế hàng: “Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai hay/ Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay”. Hàm súc nhất của bài là hai câu kết: “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ?”.

Chúng ta đọc được ở đây số phận của ông đồ, đúng hơn số phận của một thời đại và cả thái độ, tình cảm của lớp người tân thời khi chợt nhận ra những gì thuộc hồn xưa dân tộc mà ta đã trót thờ ơ, nay quay lại tìm thì không còn nữa. Mới có mấy năm (từ lúc ông đồ đắt hàng đến lúc ông ế hàng rồi biến mất) mà thời ông đồ đã thành xa lắc. Chữ muôn năm cũ của câu trên dội xuống chữ  bây giờ ở câu dưới rất gợi bâng khuâng. Dư âm câu thơ như tiếng thở dài ân hận khôn nguôi.

Các tin khác