Linh thiêng chùa Đá Trắng

Cây di sản và công trình nghệ thuật cổ

(ĐTTCO) - Một ngọn núi với những khối đá trắng phau hiếm thấy. Một vườn xoài đặc tiến dâng vua mà Gia Long vốn rất ưa thích được công nhận Cây di sản. Một ngôi chùa cổ được vua Thành Thái ban sắc tứ. Một địa điểm bí mật của các sĩ phu, văn thân yêu nước khi Tổ quốc còn chìm đắm trong bóng đêm ngoại xâm. Tất cả đã hợp thành Di tích Lịch sử - Văn hóa quốc gia có sức hấp dẫn lớn.

Cây di sản và công trình nghệ thuật cổ

Năm Mậu Dần 1578, chúa Tiên Nguyễn Hoàng sắc phong Lương Văn Chánh làm Trấn biên quan, đưa quân chiêu tập lưu dân vượt đèo Cù Mông vào khai khẩn đất Phú Yên. Sứ mệnh hoàn thành, Lương Văn Chánh được thăng Phụ quốc Thượng tướng quân Phù Nghĩa hầu. Sau đó, ông được gia thăng Tiền trấn biên dinh Tham đốc tướng Lương quới phủ phò Quận công. Đến khi mất, ông được truy tặng Phù quốc công Liệt thượng đẳng thần. Đối với tỉnh Phú Yên, vị khai quốc công thần Lương Văn Chánh trở thành thần hoàng khai sáng được Nhân dân tôn thờ, kính trọng ngay từ buổi đầu mở cõi.

Trên hành trình khai hoang lập đất mới Phú Yên, Lương Văn Chánh đã dừng ngựa đóng quân tại Bà Đài trong chặng thứ hai. Vùng Bà Đài vào thời Minh Mệnh được đổi thành Xuân Đài. Từ năm 1611 đến 1899 nơi đây là thủ phủ tỉnh Phú Yên. Nhiều dinh thự, cơ sở tôn giáo được xây dựng. Trong đó, có nhà thờ Mằng Lăng - nhà thờ Thiên Chúa giáo đầu tiên của Phú Yên, cùng những ngôi chùa Phật giáo uy nghiêm, cổ kính, lại thêm nhiều đặc sản nổi tiếng: “Rủ lên Đá Trắng ăn xoài/ Muốn ăn tương ngọt Thiên Thai thiếu gì”. Tương truyền, những lần dừng chiến thuyền ở vịnh Xuân Đài trên đường hành quân đánh quân Tây Sơn, chúa Nguyễn Ánh đã có dịp thưởng thức đặc sản vùng này và tỏ ra ưa thích xoài Đá Trắng. Vị ngọt thanh của nó không xoài ở đâu có được. Vì vậy, dưới triều Gia Long, cùng với lòn bon Quảng Nam, xoài Đá Trắng của Phú Yên trở thành “Nhị bảo ngự thiện”. Hiện nay trong vườn chùa Đá Trắng có 20 cây xoài lâu năm và được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch công nhận là Cây di sản quốc gia vào tháng 2-2014.

Chùa Đá Trắng (tên chữ Nho là Từ Quang Tự hoặc Linh Quang Tự, được tạo lập từ năm Đinh Tỵ 1797 dưới triều vua Quang Toản nhà Tây Sơn) nằm ở độ cao gần 100 mét so với mặt nước biển trên đỉnh núi Xuân Đài, mặt hướng về biển Đông. Những khối đá trắng phau bao quanh, tôn thêm vẻ lung linh, kỳ bí của chùa. Tháng giêng là lễ chùa. Đường lên chùa lát đá tảng lớn trườn qua con dốc thoai thoải, rộng khoảng 4 mét, dài gần 1 cây số. Từ đỉnh dốc có thể phóng tầm mắt bao quát cả vùng sơn thủy hữu tình. Xa xa phía Đông Nam là đầm Ô Loan với mặt nước “thản nhiên” nổi tiếng trong ca dao. Gần hơn, dòng sông Cái loáng bạc chảy qua cầu phường Lụa, ôm lấy ngọn núi Sơn Chà sừng sững giữa đồng bằng xanh thẳm. Còn phía Nam thấp thoáng lăng mộ anh hùng Lê Thành Phương - thủ lĩnh phong trào Cần Vương, cùng nằm trên dãy núi Đá Trắng.

Trải qua chiến tranh, phần chính của chùa Đá Trắng bị tàn phá, về sau phải dựng lại gần như hoàn toàn mới, nhưng theo giới nghiên cứu thì chùa vẫn giữ được một số đường nét kiến trúc thuở ban đầu. Cổng chùa và đặc biệt khu vườn mộ tháp còn nguyên vẹn, thể hiện rõ nét nghệ thuật kiến trúc cổ. Với quy mô lớn nhỏ, cao thấp khác nhau, tất cả bảo tháp đều được trang trí hoa văn, phù điêu và tượng thú một cách tinh xảo. Từ tượng hổ đến tượng nghê, kỳ lân… đều toát lên sức mạnh phi thường trong nhiều tư thế khác nhau. Khu mộ tháp cổ là phần quan trọng hình thành chỉnh thể độc đáo toàn cảnh chùa Đá Trắng. Ngôi chùa tổ và là một trong những ngôi chùa cổ nhất này của Phú Yên hiện vẫn ẩn chứa nhiều điều kỳ lạ về nghệ thuật, tâm linh cần nghiên cứu, khám phá. 

Pháo đài nghĩa quân Cần Vương

Trường thi Bình Định đầu tháng 8 - 1885. Tin từ Huế dồn dập loan đến: Kinh đô đã thất thủ. Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi chạy ra sơn phòng xuống chiếu Cần Vương. Sĩ tử Phú Yên lập tức bỏ thi về quê. Ngày 15-8-1885, ở Bình Định, thủ lĩnh Mai Xuân Thưởng dựng cờ Cần Vương khởi nghĩa. Cùng ngày, giới sĩ phu Phú Yên cũng tập hợp xây dựng lực lượng chống Pháp. Tại huyện Tuy An, sau khi làm lễ tế cờ, đọc chiếu Cần Vương, thủ lĩnh Lê Thành Phương được nghĩa quân Phú Yên, từ các bậc sĩ phu đến giới quan lại đồng lòng suy tôn làm thống soái, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa trong toàn tỉnh. Đến tháng 1-1886, vua Hàm Nghi cử sứ thần từ kinh đô Huế vào chính thức tấn phong Lê Thành Phương làm Tổng thống quân vụ đại thần (Nguyên soái) của triều đình Cần Vương.

Lê Thành Phương sinh tháng 3 - 1825, là nhân vật tiêu biểu cho tầng lớp sĩ phu yêu nước của Phú Yên thế kỷ 19. Vốn có tiếng thông minh, học giỏi, ông đỗ Tú tài nhưng từ chối làm quan, lui về quê dạy học và phụng dưỡng cha mẹ. Bà con ở quê hương gọi ông là Tú Phương. Mặc dù ở ẩn nhưng Lê Thành Phương vẫn luôn theo dõi thời cuộc, lo lắng trước vận mệnh đất nước. Uy tín Tú Phương có sức cảm hóa mãnh liệt người dân trong vùng và anh tài khắp nơi tìm đến. Ông kết giao với nhiều sĩ phu yêu nước mà sau này trở thành các cộng sự đắc lực, như Nguyễn Lễ, Nguyễn Hào Sự, Nguyễn Sách, Bùi Giảng, Hồ Trọng Đìa, Nguyễn Hữu Dực, Nguyễn Duy Tân, Ngô Kiêm Ký, Võ Thiệp, Nguyễn Văn Thành, Trần Đôn, Trần Hợi, Huỳnh Tần, Bùi Đáng…

Sau khi được nghĩa quân Cần Vương Phú Yên phó thác trọng trách, chỉ trong vòng 4 tháng, dưới sự lãnh đạo của Lê Thành Phương, nghĩa quân Cần Vương đã làm chủ cả một vùng rộng lớn, gây cho thực dân Pháp nhiều thiệt hại. Nhờ tài năng quân sự và công tích đó, tháng 1-1886 vua Hàm Nghi đã tấn phong Lê Thành Phương và trao ông quyền thống hạt, giải phóng toàn Nam Trung bộ, làm bàn đạp mở đường tiến đánh Nam Kỳ lục tỉnh.

Ngay từ khi nghĩa quân Cần Vương Phú Yên phất cao cờ khởi nghĩa, với địa thế xung yếu, đỉnh Xuân Đài - nơi tọa lạc chùa Đá Trắng - đã trở thành một pháo đài lợi hại. Lê Thành Phương đã cho đặt ở đây hai khẩu thần công đại bác để canh phòng mặt biển, trực tiếp bảo vệ tổng hành dinh đóng cách đó hơn 10 cây số về hướng Nam. Chùa Đá Tắng còn là nơi gặp gỡ, hội họp giữa Thống soái Lê Thành Phương với các cấp chỉ huy.

Hội nghị bí mật Võ Trứ - Trần Cao Vân

Trên đường giã biệt quê hương Quảng Nam tìm đường cứu nước sau khi phong trào Cần Vương bị thất bại, Trần Cao Vân đã gặp Võ Trứ tại Bình Định. Hai bậc chí sĩ khá tâm đắc về các kế sách chống Pháp. Do không hợp phong thổ Bình Định nên Trần Cao Vân bị sốt rét nằm liệt giường. Còn Võ Trứ do quá nóng lòng trước thời cuộc, đã vào Phú Yên tháng 7-1898 triệu tập một cuộc họp bí mật tại chùa Đá Trắng. Nhận được tin nên dù bệnh tình trầm trọng, Trần Cao Vân vẫn lên võng vào Phú Yên dự họp.

Trong cuốn Thân thế và sự nghiệp Trần Cao Vân của Tô Đình Cơ do Sở VHTT Bình Định xuất bản năm 1995, có đoạn viết về cuộc họp này: “Vào đến nơi Trần xem xét từng mặt và nhận thấy công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa bộc lộ nhiều nhược điểm, nghĩa quân trang bị còn quá thô sơ, chưa trải qua tập luyện thuần thục, phương án tác chiến đơn giản… Ông tranh thủ góp một số ý kiến nhằm hạn chế bớt thiệt hại khi nổ ra khởi nghĩa”. Đúng như dự liệu của Trần Cao Vân, cuộc khởi nghĩa vội vàng của thủ lĩnh Võ Trứ dưới lá cờ “Minh trai chủ tể” đã thất bại nặng. Võ Trứ và Trần Cao Vân lánh lên động Bà Thiên ẩn náu. Dân làng quanh vùng bị đàn áp, khảo tra dã man. Để tránh gây thiệt hại lớn cho Nhân dân, Võ Trứ ra nộp mạng cho giặc. Không khai thác được gì ở con người dũng cảm Võ Trứ, giặc đã đưa ông ra pháp trường xử trảm, bêu đầu lên cọc tre để thị uy dân chúng. Còn Trần Cao Vân tiếp tục lên đường tìm kế sách khác giúp vua Hàm Nghi chống Pháp.

Ngày nay, tại chùa Đá Trắng có lập riêng ngôi miếu nhỏ để thờ hai chí sĩ yêu nước Võ Trứ - Trần Cao Vân cùng các nghĩa quân đã bỏ mình vì nước. Những đêm khuya thanh vắng, các vị sư trụ trì và Nhân dân địa phương hay thấy một vị tướng cưỡi ngựa trắng phi qua chùa, cùng những tiếng khua gươm giáo và tiếng bước chân rầm rập như đoàn quân ra trận. Họ bảo rằng hồn thiêng lãnh tụ Võ Trứ cùng nghĩa quân vẫn còn quanh quẩn trên núi Đá Trắng để phù hộ cho “quốc thái dân an”.

Các tin khác