Giải tỏa trì trệ nền kinh tế?

Hôm nay 30-10, chương trình kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII sẽ thảo luận về tình hình kinh tế-xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015. Đây là nội dung rất quan trọng trong kỳ họp này, Quốc hội dành 2 ngày để các đại biểu thảo luận, tìm ra các giải pháp đột phá phát triển nền kinh tế từ năm 2015.

Hôm nay 30-10, chương trình kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII sẽ thảo luận về tình hình kinh tế-xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015. Đây là nội dung rất quan trọng trong kỳ họp này, Quốc hội dành 2 ngày để các đại biểu thảo luận, tìm ra các giải pháp đột phá phát triển nền kinh tế từ năm 2015.

Nền kinh tế đã thoát đáy

Phát biểu trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa 13, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: Tình hình kinh tế-xã hội năm 2014 đã có những dấu hiệu chuyển biến tích cực. Cơ sở của khẳng định này dựa trên kết quả 9 tháng và ước thực hiện các tháng cuối năm 2014, các chỉ số như lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô ổn định tốt hơn; nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng khi quý sau cao hơn quý trước, 9 tháng đạt 5,62%, cao hơn cùng kỳ 2 năm trước, ước cả năm 2014 khoảng 5,8%.

Thu ngân sách 9 tháng tăng 17,2% so với cùng kỳ và ước thu cả năm vượt 10,6% dự toán, bảo đảm chi theo kế hoạch và nhu cầu cấp bách phát sinh. Nợ công, nợ chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia vẫn trong giới hạn cho phép tại Nghị quyết 10 của Quốc hội.

Thực hiện khẩn trương, chặt chẽ tái cơ cấu DNNN. Hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa và thoái vốn đầu tư ngoài ngành. Bán phần vốn nhà nước trong các DN mà Nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối. Nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tăng cường quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với DNNN. Khuyến khích xã hội hóa trong sản xuất kinh doanh; phát triển nhanh DN tư nhân và kinh tế hợp tác...

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

Tuy nhiên, người đứng đầu Chính phủ cũng thẳng thắn chỉ rõ một số điểm còn tồn tại của nền kinh tế vĩ mô như các cân đối lớn của nền kinh tế chưa vững chắc; bội chi ngân sách còn cao; nợ công tăng nhanh; tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách năm 2014 khoảng 14,2% (theo quy định của Chiến lược nợ công không quá 25%), nhưng nếu tính cả vay để đảo nợ và trả nợ vay về cho vay lại 26,2%; tổng cầu tăng chậm; tăng trưởng tín dụng chậm trong những tháng đầu năm; nợ xấu còn cao trong khi xử lý còn chậm.

Việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển chưa đáp ứng yêu cầu. Thị trường chứng khoán phát triển chưa vững chắc. Thị trường bất động sản phục hồi chậm. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu còn thấp. Quản lý thị trường, phòng chống gian lận thương mại, chuyển giá hiệu quả chưa cao. Môi trường đầu tư kinh doanh và năng lực cạnh tranh cải thiện còn chậm.

Thủ tục hành chính còn nhiều vướng mắc. Sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn, doanh nghiệp (DN) còn khó tiếp cận vốn tín dụng… “Cơ bản chúng ta đã đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội mà Quốc hội đề ra. Trong 14 chỉ tiêu kế hoạch năm 2014, dự báo có 13 chỉ tiêu đạt, vượt, chỉ duy nhất có 1 chỉ tiêu không đạt. Đây là sự nỗ lực, cố gắng rất lớn”- Thủ tướng nhấn mạnh.

Chính vì vậy Chính phủ đặt mục tiêu của năm 2015 sẽ tiếp tục tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn và vững chắc hơn năm 2014.

Theo đó, phấn đấu tăng GDP khoảng 6,2%, tốc độ tăng giá tiêu dùng khoảng 5%, kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%; tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu ở mức 5%, tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP 5%. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng khoảng 30% GDP.

Yếu kém cơ cấu chưa được khắc phục

Tuy nhiên, theo đánh giá của nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển, bất ổn vĩ mô kéo dài, lạm phát cao, tăng trưởng suy giảm, số DN ngừng hoạt động tăng; nợ công tăng nhanh, từ mức 36,2% GDP năm 2008 đã lên đến 56% GDP năm 2013.

Theo đồng hồ nợ công toàn cầu của Tạp chí The Economic công bố ngày 20-8-2014, hiện nay bình quân mỗi người dân Việt Nam phải gánh 99USD nợ công. Có thể nói kinh tế Việt Nam năm 2013 đã chạm đáy nhưng đà hồi phục chậm chạp do cơ cấu kinh tế lạc hậu, công nghiệp chủ yếu là gia công, hàm lượng nội địa và giá trị gia tăng thấp.

Theo đánh giá triển vọng kinh tế thế giới của nhiều tổ chức uy tín trong và ngoài nước, nền kinh tế ở nhiều nước trên thế giới trong năm 2014 còn gặp nhiều khó khăn và có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phục hồi kinh tế. Bởi vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2014 khoảng 5,8% cũng là thách thức đối với các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam. Năm 2015, tỷ lệ tăng trưởng dự báo khoảng 6,04% và lạm phát khoảng 5,6-6%.

GS.TS Trần Thọ Đạt,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Nông nghiệp Việt Nam đến nay vẫn là nền sản xuất nhỏ phân tán manh mún, năng suất lao động và giá trị gia tăng trên 1ha đất thấp. Cơ cấu các thành phần kinh tế bất ổn, không phát huy được tiềm năng của khu vực tư nhân.

Quan điểm kinh tế nhà nước là chủ đạo dẫn đến sự gia tăng tính độc quyền của DN nhà nước (DNNN). Mặc dù số lượng DNNN đã giảm mạnh từ 12.000 DN đầu những năm 90 xuống còn khoảng hơn 1.000 DN hiện nay (giảm khoảng 12 lần về số DN), nhưng việc hình thành các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước với nhiều công ty con, cháu, thậm chí cả công ty chắt, đã làm cho tỷ trọng của DNNN trong GDP ở mức rất cao, chiếm đến 32%; tỷ trọng dư nợ tín dụng và nợ xấu của DNNN còn cao hơn.

Nhiều chuyên gia cho rằng, mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào sự gia tăng các yếu tố đầu vào và khai thác tài nguyên để xuất khẩu; năng suất lao động thấp.

Cùng với đó là nguyên nhân từ điều hành kinh tế, như  phản ứng chính sách ở một số thời điểm không hợp lý, làm phức tạp thêm tình hình và khoét sâu những yếu kém về cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng. Năm 2014, kinh tế vĩ mô ổn định hơn, lạm phát giảm, nền kinh tế đã thoát đáy nhưng đang vật vã để đi lên do tổng cầu vẫn yếu, nợ xấu không được giải quyết hiệu quả và đang có xu hướng tăng lên, tín dụng không đến được với nền kinh tế; tốc độ phục hồi chậm.

Cần "cú hích" mạnh mẽ

Ông Tuyển cho rằng, trước tiên cần có giải pháp hữu hiệu để giải quyết nợ xấu của các ngân hàng thương mại (NHTM), gắn với tái cơ cấu hệ thống NH. Thực hiện minh bạch tỷ lệ nợ xấu. Đối với nợ xây dựng cơ bản và nợ của DNNN, trước sau Nhà nước cũng phải trả thì cần tìm nguồn để trả.

Chẳng hạn bán cổ phần của các DNNN mà Nhà nước không cần tham gia sở hữu tại Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) để trả, giải phóng bớt gánh nặng cho các tổ chức tín dụng đi đôi với việc xử lý lãnh đạo DNNN đã gây ra nợ xấu và tái cơ cấu DNNN.

Có chính sách để các quỹ đầu tư, kể cả các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia thị trường mua bán nợ. Trong điều kiện tổng cầu yếu, lạm phát thấp và đang xuất siêu, cần xem xét khả năng điều chỉnh hạ giá VNĐ khoảng 3% để khuyến khích xuất khẩu và phát triển công nghiệp hỗ trợ.

Về biện pháp dài hạn, cần xây dựng thể chế kinh tế thị trường hiện đại dựa trên 3 trụ cột (thị trường, Nhà nước và xã hội), coi đây là tiền đề quyết định để tái cơ cấu nền kinh tế. Trong cải cách DNNN cần tiến hành cổ phần hóa DNNN - bán hết phần vốn trong DN mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần; đổi mới quản trị DNNN mà Nhà nước còn nắm giữ cổ phần chi phối, coi đây là nội dung chủ yếu của tái cơ cấu DNNN.

Theo đó, thực hiện minh bạch hóa hoạt động của DNNN; áp đặt kỷ luật thị trường trong hoạt động của DNNN; loại bỏ mọi sự phân biệt đối xử giữa các DN, không phân biệt thành phần kinh tế, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các DN; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của chủ sở hữu nhà nước và đại diện chủ sở hữu tại DN.

Cần tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn tín dụng. Ảnh: LONG THANH

Cần tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn tín dụng.
Ảnh: LONG THANH

Một mục tiêu không kém phần quan trọng trong tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế là đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng khuyến khích tập trung ruộng đất theo các mô hình và phương thức khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm từng địa bàn, nhằm tạo ra vùng sản xuất hàng hóa lớn, chuyên canh.

Qua đó đưa công nghiệp và khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, quản lý chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, ổn định nguồn cung, hình thành chuỗi giá trị từ nuôi trồng, chế biến đến lưu thông, bảo đảm phân phối lợi ích hợp lý giữa các khâu trong chuỗi giá trị đó.

Ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, kỹ thuật nuôi trồng, chế biến vào nông nghiệp, từng bước hình thành những tổ hợp công - nông nghiệp công nghệ cao. Có cơ chế khuyến khích DN, kể cả DN FDI đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhằm tạo ra nhiều ngành nghề mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp và nông thôn.

Để tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, Chính phủ tiếp tục thực hiện các biện pháp phù hợp để tăng tổng cầu và hỗ trợ phát triển thị trường. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư, tập trung vào các công trình quan trọng, cấp bách. Tạo thuận lợi cho các DN, nhất là DN nhỏ và vừa tiếp cận tín dụng. Quan tâm phát triển thị trường trong nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.

Tập trung chỉ đạo và có biện pháp cụ thể đối với từng bộ, ngành, địa phương để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ chế chính sách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng nhanh công nghệ thông tin, tạo thuận lợi tối đa, giảm chi phí cho người dân và DN trong các lĩnh vực thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, đất đai, xây dựng, thành lập, giải thể và phá sản DN, thực hiện đầu tư, tiếp cận điện năng..

Các tin khác