ĐỔI MỚI PHÂN BỔ VỐN ĐẦU TƯ CÔNG

Đột phá đầu tư tam nông

Việt Nam với dân số trên 90 triệu dân, vẫn còn khoảng 70% dân số sống ở nông thôn. Nông nghiệp Việt Nam góp nguồn thu ngoại tệ lớn; góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội, là động lực nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tất cả những điều này cho thấy sự cần thiết Nhà nước cần tập trung đột phá đầu tư phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn (tam nông).

Việt Nam với dân số trên 90 triệu dân, vẫn còn khoảng 70% dân số sống ở nông thôn. Nông nghiệp Việt Nam góp nguồn thu ngoại tệ lớn; góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội, là động lực nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tất cả những điều này cho thấy sự cần thiết Nhà nước cần tập trung đột phá đầu tư phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn (tam nông).

Lĩnh vực trọng điểm cần tái cơ cấu

Thời gian qua Việt Nam đã trở thành một trong các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về các mặt hàng gạo, cao su, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, sản phẩm gỗ và các sản phẩm thủy sản. Tuy nhiên, từ thực tế cuộc sống đã đặt ra hàng loạt câu hỏi đang cần giải đáp: Vì sao giá gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn thấp hơn so với giá gạo thế giới? Vì sao giá cả nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc, nuôi trồng thủy sản hầu như lệ thuộc hoàn toàn vào nước ngoài, biến động liên tục làm người chăn nuôi gánh chịu nhiều rủi ro?

Hiện nay, nhiều nơi lấy đất nông nghiệp để quy hoạch khu công nghiệp, sân golf nhưng nhiều năm bị bỏ không, không khai thác được, trong khi đất cho sử dụng sản xuất nông nghiệp thiếu. Thực trạng này dẫn đến việc bình quân mỗi hộ nông dân (với 5 nhân khẩu) ở ĐBSCL chỉ sở hữu 1ha đất, rất manh mún, khó thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp.

Vì sao nông dân Việt Nam không giàu lên được trong khi xuất khẩu gạo ngày càng tăng? Cần làm gì để cứu ngành nông nghiệp khi giá gà xuất chuồng nhiều khi bán rẻ hơn rau, sản xuất nông nghiệp có nguy cơ đình đốn, vỡ nợ hàng loạt. Chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều loại sản phẩm nông nghiệp thấp do phần lớn nông sản xuất khẩu ở dạng sơ chế; xuất khẩu thô chưa qua chế biến. Giá trị gia tăng trong nông nghiệp đạt thấp; chưa có thương hiệu; không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật...

Thực tế cho thấy quy hoạch tổng thể vùng, miền trong sản xuất nông nghiệp phải được xem là kim chỉ nam và là yếu tố then chốt để quản lý đất đai và điều hành sản xuất nông nghiệp; hạn chế tối đa việc chuyển quyền sử dụng đất, lấy đất sản xuất nông nghiệp.

Cần công bố công khai quy hoạch kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp, quy hoạch rừng. Chú trọng quy hoạch vùng trồng lúa, vùng trồng cà phê, vùng trồng cây cao su và những mặt hàng nông sản chủ lực… Trong một thời gian nhất định (5 năm), hoặc khi có những biến động lớn của thị trường nông sản thế giới, cần thiết phải điều chỉnh quy hoạch diện tích vùng sản xuất các mặt hàng nông phẩm chủ lực cho phù hợp.

Hiện nay luật đất đai mới quy định quyền cho thuê ruộng đất đối với hộ gia đình và cá nhân, còn với các công ty quyền này không được đề cập. Nhà nước cần bổ sung quy định CTCP, công ty TNHH chuyên sản xuất và kinh doanh nông sản phẩm cũng được giao ruộng đất ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp.

Mặt khác, Nhà nước cần xóa bỏ chính sách hạn điền để có thể tích tụ ruộng đất, từ đó mới phát triển sản xuất hàng hóa lớn; đồng thời gia tăng thời hạn giao đất từ 50 năm trở lên, thay vì 20 năm đang gây khó khăn trong việc góp vốn liên doanh bằng giá trị, quyền sử dụng đất.

Bên cạnh đó, vấn đề quy hoạch tổng thể ruộng đất, vùng nuôi trồng dù không phải mới, nhưng cần thiết phải tổ chức lại, trên cơ sở xem xét kỹ lưỡng những biến động trong thực tế nhiều năm qua. Cùng với đó cần có những biện pháp chế tài hoặc khuyến khích thực hiện quy hoạch đất nông nghiệp một cách căn cơ, chặt chẽ.

Phát triển doanh nghiệp nông nghiệp

Nhà nước có thể chủ động khuyến khích sản xuất quy mô lớn bằng cách ưu đãi các công ty TNHH, CTCP với chức năng tổ chức sản xuất nông nghiệp và kinh doanh các mặt hàng nông phẩm tại các địa bàn trọng điểm ở vùng đồng bằng sông Hồng, ĐBSCL (lập doanh nghiệp nông nghiệp). Các công ty này thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp được đăng ký tại các Sở Kế hoạch - Đầu tư tỉnh, thành phố.

Hiện nay trong thực tế đang có mô hình trang trại và mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới. Đây là một hình thức cấp thấp (trước khi chuyển sang mô hình công ty) nhưng cũng đạt một số hiệu quả nhất định, như đã tập trung vốn, tập trung diện tích đất nông nghiệp lớn để có thể tiến hành cơ giới hóa, hiện đại hóa sản xuất. Một số địa phương đã hình thành được khu vực nông sản chuyên canh hàng hóa chủ lực như cà phê, lúa cao cấp, tiêu, điều, sản xuất bưởi Năm Roi, vú sữa Lò Rèn xuất khẩu...

Để có vùng sản xuất quy mô lớn, cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, phương pháp nhanh và ít tốn kém là kêu gọi góp vốn thành lập CTCP trên cơ sở quy ra giá trị quyền sử dụng đất ruộng… Chỉ có trên cơ sở đó mới có điều kiện tập trung vốn, nguồn nhân lực, từng bước đưa công nghệ sinh học vào sản xuất, phục vụ cho việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Đây là điểm then chốt để chủ động được đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp trên thị trường quốc tế.

Với tư cách chủ thể của một loại mô hình doanh nghiệp là doanh nghiệp nông nghiệp (dưới dạng công ty TNHH, CTCP, hợp tác xã nông nghiệp), ngân hàng có thể quản lý tập trung cho  vay đầu tư. Thậm chí sau một thời gian xem xét hoạt động, ngân hàng có thể cho doanh nghiệp nông nghiệp được vay tín chấp, thay vì chỉ cho vay thế chấp.

Doanh nghiệp nông nghiệp có điều kiện tập trung nhiều người góp vốn (có thể góp vốn bằng tiền hoặc bằng quyền sử dụng ruộng đất…), xây dựng phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh từng vụ hoặc từng năm; có thể vay đầu tư ngắn hạn (vốn lưu động) để mua vật tư nông nghiệp, nguyên vật liệu khắc phục tình trạng nông dân phải ứng vốn của các công ty cấp 3, cấp 4 hoặc ứng vốn của người chuyên cho vay nặng lãi tại nông thôn.

Doanh nghiệp nông nghiệp cũng có thể vay đầu tư dài hạn (10-30 năm) để mua máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, cho chế biến, hoặc đầu tư xây kho chứa lúa thành phẩm…

Các doanh nghiệp nông nghiệp chủ động được nguồn tiền với lãi suất thấp có thể chủ động mua vật tư nông nghiệp, nguyên vật liệu với giá rẻ (ai bán rẻ thì mua); chủ động bán sản phẩm sau thu hoạch với giá cao (ai mua cao giá thì bán), không bán đổ, bán tháo vì kẹt tiền... khắc phục tình trạng được mùa mất giá, được giá mất mùa. Doanh nghiệp nông nghiệp còn có khả năng dễ dàng tiếp cận chính sách lãi suất kích cầu, vay ưu đãi, chương trình tổ chức dạy nghề cho nông dân...

Như vậy tổ chức doanh nghiệp nông nghiệp mới sẽ có điều kiện xây dựng thương hiệu, nâng cao trình độ quản lý, trình độ tri thức; đồng thời trên cơ sở quy mô sản xuất lớn mới có thể dễ dàng hợp tác với các doanh nghiệp trong và ngoài nước (thành lập các website giao lưu giữa những người sản xuất và mua bán nông sản phẩm), chủ động ký kết hợp đồng mua bán kỳ hạn (trước hoặc sau khi thu hoạch sản phẩm), chủ động giải quyết đầu ra nông sản…

Mua tận gốc, bán tận ngọn

Các doanh nghiệp Việt Nam vốn ít, còn non trẻ, đa phần kinh doanh nhập khẩu phân bón, nguyên vật liệu đều dựa trên thông tin của những công ty trung gian nước ngoài, tức mua bán dựa trên thông tin được cung cấp bởi người bán như thông tin giá cả lên xuống, trữ lượng tồn kho nguyên vật liệu, phân bón của thế giới. Đây thường là những thông tin khó tin cậy chỉ có lợi cho người bán. Từ đó dẫn đến những quyết định mua hàng thường bị hớ.

Trong khi đó, Nhà nước giao nhiệm vụ cho các Tham tán thương mại của Việt Nam tại các nước nắm thông tin để cung cấp doanh nghiệp trong nước, nhưng trách nhiệm được giao không rõ ràng và chỉ mang tính chất tham khảo, không ràng buộc về quyền lợi vật chất.

Do đó, doanh nghiệp chưa sử dụng được kênh thông tin này. Những lý do này là nguyên nhân đẩy giá nhập khẩu nguyên liệu đầu vào sản xuất nông nghiệp nước ta cao hơn giá thế giới. Mặt khác, nông dân phải mua vật tư, nguyên liệu phân bón, thuốc trừ sâu… thông qua nhiều tầng nấc trung gian. Đặc điểm này làm giá đầu vào của nông sản phẩm luôn luôn cao. Đa phần nông dân không có tiền mặt để mua trực tiếp, không có quyền lựa chọn và mặc cả.

Thực tế nhiều năm qua nông dân phải thường xuyên ứng tiền, ứng hàng trước vào đầu vụ của các công ty, doanh nghiệp kinh doanh ngành vật tư nông nghiệp cấp 3, cấp 4 tại các tỉnh. Phần ứng trước này được cộng với lãi suất rất cao và sẽ được thu hồi dần hoặc khi nông dân thu hoạch sản phẩm. Do đó, giá của vật tư (giá của đầu vào của nông sản phẩm) đội lên rất cao, kể cả nhiều lúc nông dân bị buộc phải bán sản phẩm với giá rẻ để trừ nợ.

Cần bỏ chính sách hạn điền để khuyến khích sản xuất quy mô lớn.

Cần bỏ chính sách hạn điền để khuyến khích sản xuất quy mô lớn.

Căn cứ vào thế mạnh của quốc gia cần xác định tỷ lệ đầu tư công cho sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, công nghiệp chế biến (phục vụ nông nghiệp); đầu tư cho hệ thống kho tàng, bến cảng (phục vụ xuất khẩu nông nghiệp); đầu tư cho hệ thống đường giao thông nông thôn (trong đó ưu tiên tập trung đầu tư cho giao thông phục vụ xuất nhập khẩu)…

Tỷ lệ đầu tư đề nghị 30-35% để đẩy mạnh, đột phá phát triển đầu tư sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến, cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp… thay vì chỉ dưới 20% trên tổng mức chi đầu tư công cả nước hàng năm.

Cần có quy chế giá cả dịch vụ rõ ràng, minh bạch, thông thoáng cho doanh nghiệp kinh doanh có nhu cầu mở văn phòng, trạm đại diện hoặc thành lập các công ty con tại nước ngoài, tạo cơ chế thuận lợi trong việc giao thương hàng hóa với mục đích giúp đỡ các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mua tận gốc bán tận ngọn, hướng đến sự phát triển bền vững.

Trong phối hợp các ngành chuyên môn, Bộ Công Thương tổ chức mời “Đấu thầu ngắn hạn giao hàng phân bón có ấn định số lượng - thời gian giao hàng cụ thể” như nhiều nơi trên thế giới mở thầu thường xuyên. Trên cơ sở đó giá thành nhập khẩu sẽ hạ, giảm được phí trung gian.

Tổ chức những chợ (sàn giao dịch) các mặt hàng nông sản phẩm chủ lực tại những vùng trọng điểm sản xuất mang tính cạnh tranh các sản phẩm vật tư nguyên liệu, nông sản phẩm chế biến và nông sản phẩm sau thu hoạch. Bên cạnh đó, Chính phủ cần giao các bộ Kế hoạch - Đầu tư, Tài chính, Nông nghiệp-Nông thôn xác định cụ thể mức đầu tư công tương xứng vào ngành nông nghiệp.

Các tin khác