FDI và nguy cơ phụ thuộc nguồn lực bên ngoài

Các số liệu thống kê cho thấy, động lực tăng trưởng của Việt Nam đang phụ thuộc khá nhiều vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Xu hướng này sẽ còn kéo dài trong cả năm nay và những năm tiếp theo nếu không có sự điều chỉnh kịp thời.

Các số liệu thống kê cho thấy, động lực tăng trưởng của Việt Nam đang phụ thuộc khá nhiều vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Xu hướng này sẽ còn kéo dài trong cả năm nay và những năm tiếp theo nếu không có sự điều chỉnh kịp thời.

Về đóng góp vào GDP, tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI đang có xu hướng tăng lên. Từ tỷ lệ đóng góp 6,3% của GDP trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên mức 14,6% trong thời kì 2001-2005 và 19,3% GDP năm 2009.

Năm 2013, Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu đạt gần 150 tỷ USD, trong đó khu vực đầu tư nước ngoài đóng góp tới 2/3. Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan mới nhất cho thấy, hết quý 1, cán cân thương mại hàng hoá của cả nước thặng dư 1,08 tỷ USD.

Tuy nhiên, đây không phải là con số đáng mừng khi kim ngạch xuất khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm gần 60% tổng kim ngạch của cả nước. Các doanh nghiệp trong nước nhập siêu hơn 0,8 tỷ USD, khối các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 1,89 tỷ USD.

FDI cũng như mọi nguồn lực bên ngoài khác rất quan trọng, nhưng họ có thể vào và có thể ra đi. Cái còn lại là người Việt Nam học được những gì? (Ảnh: VOV)
FDI cũng như mọi nguồn lực bên ngoài khác rất quan trọng, nhưng họ có thể vào
và có thể ra đi. Cái còn lại là người Việt Nam học được những gì? (Ảnh: VOV)

FDI- công nghệ thấp

Những nguy cơ đối với nền kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào nguồn lực bên ngoài đã được các chuyên gia trong và ngoài nước đề cập nhiều. Tuy vậy, theo PGS.TS. Bùi Tất Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), việc giảm thiểu tác động vượt trội của khu vực này Việt Nam chưa có giải pháp thích hợp.

PGS.TS. Bùi Tất Thắng cũng khẳng định: Đây là kết quả của tư tưởng dựa vào đầu tư nước ngoài mà thiếu đi chiến lược tiếp nhận hợp lí, đặc biệt là chiến lược đổi mới công nghệ theo hướng tăng khả năng cạnh tranh bền vững và lâu dài cả trên thị trường trong nước và thế giới.

Trong khi đó, theo TS Lưu Bích Hồ - nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư): “Mục tiêu quan trọng nhất ở FDI là chuyển giao công nghệ thì hiện nay chỉ có 5% công nghệ cao, 15% công nghệ trung bình, còn lại hơn 70% là công nghệ kém, lạc hậu cùng với việc sử dụng lao động phổ thông nên tạo ra giá trị gia tăng chỉ 20%, còn giá trị nội địa chỉ 10%. Phải xoay chuyển lại tình thế này để sử dụng nội lực của chúng ta hợp tác với quốc tế”.

TS.Trần Đình Thiên- Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cũng cho rằng, cần điều chỉnh chiến lược thu hút FDI, thay đổi cách nhìn về tăng trưởng: “Tạo cơ hội để thu hút FDI chúng ta đã và đang làm rầm rộ nhưng toàn mời những ông công nghệ thấp, tận dụng lao động rẻ, ô nhiễm môi trường nhiều, khai thác tài nguyên cạn kiệt về mặt chiến lược kinh tế như vậy là không ổn”.

Không thể cứ mãi phụ thuộc

TS Lưu Bích Hồ cũng đưa ra cảnh báo mạnh mẽ “cần chấn chỉnh, hoàn thiện việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) theo đúng mục tiêu chiến lược. Tập trung mạnh vào chuyển giao công nghệ tiên tiến hiện đại, bảo vệ môi trường. Đặt hiệu quả tổng thể cao, góp phần tích cực tăng tiềm lực và nội lực kinh tế đất nước; khắc phục, phòng tránh nguy cơ khu vực FDI lấn át khu vực kinh tế trong nước.

PGS.TS. Bùi Tất Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và đầu tư) đưa ra một thực tế: “FDI cũng như mọi nguồn lực bên ngoài khác là rất quan trọng, nhưng họ có thể vào và đương nhiên có thể ra đi. Cái còn lại là người Việt Nam học được những gì cung cách quản lý của họ, được chuyển giao tri thức khoa học- công nghệ gì từ họ, tiếp nối như thế nào trong cái mắt xích của “chuỗi giá trị toàn cầu” mà họ đã từng có... là những điều mà không thể không quan tâm”.

Còn theo GS Kenichi Ohno - Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản cho rằng, Việt Nam nên tham khảo cách làm của Thái Lan, tức là mở cửa thị trường, thu hút FDI để hình thành cơ sở công nghiệp; hình thành các doanh nghiệp cung cấp phụ tùng cho FDI và xuất khẩu...

Theo GS Kenichi Ohno, việc học hỏi công nghệ từ các doanh nghiệp FDI phải trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Công nghệ học được cần sử dụng thực sự, đặc biệt đối với các doanh nghiệp trong nước cung cấp sản phẩm được cải tiến cho doanh nghiệp FDI như: Honda hướng dẫn các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất phục tùng; Nhật Bản hướng dẫn nhà xuất khẩu tôm đông lạnh làm thế nào để đảm bảo chất lượng và an toàn cho thị trường Nhật Bản...

Khi đề cập đến các nguồn ngoại lực, theo PGS.TS. Bùi Tất Thắng, bên cạnh yêu cầu của việc thu hút vốn và công nghệ nước ngoài, cần chú ý hơn tới yếu tố mềm như tri thức quản lý, khả năng kinh doanh, khả năng tổ chức... “Cùng với vốn và công nghệ, năng lực quản lý và khả năng kinh doanh là những yết tố quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Vốn, công nghệ và nguồn lực kinh doanh là ba yếu tố quan trọng để kinh tế phát triển và cũng là yết tố nhìn được cả hai mặt nội lực và ngoại lực.

FDI là hình thái du nhập cùng một lúc 3 nguồn lực: vốn, công nghệ và năng lực kinh doanh. Kinh nghiệp các nước đã phát triển rất đa dạng. Nhật Bản là nước hầu như chỉ nhập khẩu công nghệ, còn vốn và nguồn lực kinh doanh thì dựa vào nội lực. Hàn Quốc ở thập niên 1980 trở về trước thì du nhập nhiều vốn (bằng ODA và vay thương mại) và công nghệ (chủ yếu qua hình thức hợp đồng) nhưng năng lực kinh doanh bản xứ đóng vai trò chủ đạo.

Đối với Việt Nam, việc đào tạo ra nguồn nhân lực ở trong nước sẵn sàng và đủ sức tiếp nhận để cộng hưởng với nguồn ngoại lực và biến ngoại lực dần trở thành nội lực có vai trò không thể thay thế. Sự phát triển kinh tế- xã hội của một quốc gia nhất thiết phải là của chính quốc gia đó.

Các tin khác