Chiến tranh tiền tệ, đình trệ kinh tế toàn cầu

"Đồng tiền của các ông, vấn đề của chúng tôi". Đó là câu nói của Bộ trưởng Tài chính Brazil, ông Guido Mantega vào năm 2010, khi các nước phát triển phá giá đồng tiền của họ. Năm 2010 trở thành dấu mốc thế giới bắt đầu cuộc chiến tranh tiền tệ lần thứ 3 khi Hoa Kỳ thực hiện mạnh tay chương trình gói nới lỏng định lượng lần 2 (QE2).

"Đồng tiền của các ông, vấn đề của chúng tôi". Đó là câu nói của Bộ trưởng Tài chính Brazil, ông Guido Mantega vào năm 2010, khi các nước phát triển phá giá đồng tiền của họ. Năm 2010 trở thành dấu mốc thế giới bắt đầu cuộc chiến tranh tiền tệ lần thứ 3 khi Hoa Kỳ thực hiện mạnh tay chương trình gói nới lỏng định lượng lần 2 (QE2).

Dòng tiền nóng

Hệ lụy của các gói QE mà các nước phát triển thực hiện chính là sự bùng nổ của giá vàng và bong bóng giá hàng hóa. Giá vàng tăng phi mã từ mức xấp xỉ 800USD vào tháng 10-2008, lên mức kỷ lục 1.923USD vào tháng 9-2011. Giá lương thực, thực phẩm tăng vọt gây lo ngại nguy cơ khủng hoảng lương thực.

Điều này khiến lạm phát các nước đang phát triển tăng vọt vì lương thực chiếm tỷ trọng lớn trong rổ CPI. Không chỉ ảnh hưởng đến lạm phát, sự mất giá của đồng bạc xanh làm tổn hại đến khả năng cạnh tranh của nhiều nước đang phát triển.

Đồng real của Brazil tăng gần 10% từ năm 2010 đến tháng 3-2012, tăng gần 1/3 kể từ năm 2009, làm tổn hại đến xuất khẩu và tạo ra nguy cơ đảo ngược dòng vốn đang đổ vào quốc gia này.

James Rickards, Giám đốc điều hành cấp cao tại Tangent Capital Partners, cho rằng: “Brazil là nạn nhân đầu tiên và nổi bật nhất của chiến tranh tiền tệ”. GDP thực của Brazil giảm mạnh nhất trong khối BRICS, từ mức 7,5% vào năm 2010 xuống còn 0,9% vào năm 2012.

Ở châu Á, đồng rupee của Ấn Độ tăng giá hơn 23% so với USD từ tháng 7-2011 đến tháng 6-2012, dẫn đến sự gia tăng thâm hụt thương mại. Dòng vốn nước ngoài tháo chạy khiến rupee Ấn Độ giảm hơn 20% kể từ tháng 7-2012 sau khi nước này nâng lãi suất lên mức 9%/năm để chống lạm phát. Kinh tế Ấn Độ suy giảm mạnh thứ 2 trong khối BRICS.

Việc Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED) bơm tiền ồ ạt và giữ lãi suất thấp đã tạo ra dòng tiền nóng đổ vào các thị trường mới nổi, đặc biệt khu vực châu Á và Mỹ Latin. Vào cuối năm 2010, dòng tiền nóng vào thị trường mới nổi đã đạt con số 825 tỷ USD, vượt cả đỉnh trước khủng hoảng 2007.

Trái với các quốc gia khác, Hoa Kỳ có lợi thế lớn nhờ vào USD yếu thông qua các gói QE2. GDP thực của Hoa Kỳ tăng trưởng đều đặn 2,2-2,4% từ năm 2010-2012, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm nhẹ xuống còn 7,5-8% so với mức đỉnh 10%. Nhưng liệu Hoa Kỳ có giữ được kỳ tích này khi cuộc chiến tranh tiền tệ đang leo thang từ đầu năm 2013 vẫn còn là câu hỏi.

Thậm chí, dòng tiền vào các nước ở khu vực châu Á đã tăng quá 60% so với đỉnh năm 2007. Do đó, việc Nhật Bản thực hiện nới lỏng tiền tệ vào cuối năm 2012 càng tạo ra sự dư thừa thanh khoản ở các nước đang phát triển khu vực châu Á - Thái Bình Dương và tiếp tục hâm nóng thị trường bất động sản.

Nguy cơ lan rộng

Cuộc chiến tranh tiền tệ mà Bernanke, Chủ tịch FED, khởi xướng đã kích thích một cuộc khủng hoảng nợ ở Eurozone. Tăng trưởng GDP thực của Eurozone dưới 0% vào năm 2012 sau khi gần như không tăng trưởng vào năm 2011. Giá bất động sản tại khu vực này giảm mạnh từ năm 2010 cho đến nay phản ánh sự sụt giảm của giá cả trong quá trình giảm phát nợ.

Eurozone đang yếu thế hơn so với Hoa Kỳ hoặc Nhật Bản trong cuộc chiến tiền tệ bởi cơ chế riêng của mình. Việc FED bung ra gói QE1 vào năm 2009 và QE2 vào mùa hè năm 2010 đã khiến đồng EUR trở nên mạnh hơn 20% so USD, làm giảm khả năng cạnh tranh xuất khẩu của nhiều nước tại khu vực châu Âu.

Mặc dù Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã giảm giá trị EUR 15% so với USD trong thời gian từ tháng 8-2011 đến tháng 7-2012 bằng các biện pháp mạnh tay, như chương trình hoạt động tài trợ dài hạn (LTRO) lần 1 và lần 2, nhưng đã tỏ ra quá muộn và không đủ để vực dậy nhóm 5 nước Bồ Đào Nha, Ireland, Italia, Hy Lạp và Tây Ban Nha (PIIGS).

Thực tiễn ở Hoa Kỳ những năm 1930 cho thấy để thoát khỏi giảm phát cần đến sự kết hợp của chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng. Năm 1933, Tổng thống Franklin D.Roosevel tung ra chương trình New Deal và đến tháng 1-1934 phá giá nội tệ bằng việc loại bỏ bản vị vàng. Tuy nhiên, nỗi ám ảnh lạm phát và e sợ thâm hụt ngân sách và nợ công là lý do các quốc gia hiện nay e dè trong việc thực hiện các biện pháp kích cầu lẫn mở rộng tiền tệ.

Theo Paul Krugman, cú sốc bất cân xứng bên trong của quan hệ thương mại nội khối khiến PIIGS cần phải phá giá đồng tiền nhiều hơn nữa. Nếu có đồng tiền riêng, các nước thuộc nhóm PIIGS có thể dễ dàng xoay sở hơn bằng cách phá giá nội tệ khi dòng vốn của người Đức rút đi.

Từ cuối năm 2012, Nhật Bản khiến thế giới phải lo lắng về một bước ngoặt mới trong cuộc chiến tranh tiền tệ khi tuyên bố in tiền không giới hạn nhằm đạt mục tiêu lạm phát 2%. Và đồng yên mất giá hơn 28% so với USD trong vòng 6 tháng.

Sau động thái của Nhật Bản, Venuezela tuyên bố phá giá 1/3 giá trị nội tệ vào tháng 2-2013. Ngân hàng Trung ương New Zealand cho biết đang xem xét can thiệp vào thị trường tiền tệ để hạn chế đà tăng của đồng kiwi. Brazil đang cố gắng hạ giá đồng tiền bằng cách hạn chế dòng vốn vào.

Tháng 4-2013, nước Anh dấy lên dư luận phải phá giá mạnh đồng bảng Anh, có thể là 1/3 giá trị, nhằm cứu nền kinh tế. Nga và Trung Quốc có cách riêng trong cuộc chơi tiền tệ khi lên tiếng thay đổi hệ thống tiền tệ toàn cầu. Thậm chí Nga còn tấn công vào hệ thống tiền tệ “bản vị dầu” mà Hoa Kỳ tạo dựng vào năm 1973. Nga đang vận động ủng hộ cho một hệ thống bản vị được bảo đảm bằng vàng mới.

Nấc thang mới trong chiến tranh tiền tệ khiến nhiều nước lo lắng về nguy cơ chiến tranh tiền tệ lan rộng như những năm 1930. Sự sụp đổ của Phố Wall vào năm 1929 khiến hàng loạt quốc gia từ bỏ bản vị vàng do Anh thiết lập trước đó.

Việc phá giá nội tệ nhằm xuất khẩu tình trạng thất nghiệp sang nước khác (chính sách làm nghèo hàng xóm), nhưng kết quả là sự trả đũa của quốc gia khác. Hệ quả của cuộc chiến tranh này là thương mại toàn cầu suy giảm. Vì vậy, nguy cơ của cuộc chiến tranh tiền tệ lan rộng như những năm 1930 là hoàn toàn có thực sau hành động của Nhật Bản. Cuộc chiến tranh tiền tệ rốt cuộc dẫn đến nguy cơ suy thoái toàn cầu mới.

James Rickards bình luận: “Không có người thua hay kẻ thắng trong cuộc chiến tranh tiền tệ. Tất cả quốc gia đều bại. Chỉ một người thắng duy nhất là vàng”.

Các tin khác